‘Khi sinh ra, đứa trẻ nằm trong một vùng hỗn mang, nơi được năng lượng của giác quan và bản năng thuần khiết luân phiên nhau kiến tạo và định hình: nó hiện hữu tựa như cách một con thú tồn tại nghèo nàn trong thế giới xung quanh nó¹. Rồi khi nhìn qua tấm gương, nơi hình ảnh của một bản ngã lý tưởng được hình thành, nó chập chững đi qua vùng ranh giới giữa khoảng hỗn mang nguyên thuỷ và thế giới của ngôn ngữ, diễn giải. Đứa trẻ bước qua ngưỡng, và không quay lại được nữa, chỉ mang những mảnh vụn của thế giới bản năng, giấu lẫn lộn cùng ký ức, cổ mẫu² và những điều kỳ lạ khác trong những ngăn sâu tiềm thức…’ –trích tuyên ngôn của nghệ sĩ Nghĩa Đặng.
Trong triển lãm ‘Cảnh tượng của mẫu’, Nghĩa Đặng sắp đặt một sân khấu, nơi những hình, cảnh rời rạc ẩn hiện của bóng âm (shadow)³ được xâu chuỗi và hé lộ. Khung cảnh mở một trải nghiệm về những giao thoa giữa bản năng-vật thể-nghi lễ tại ngưỡng giữa con và người.
Tiếp nối lịch sử của readymade art⁴, các tác phẩm điêu khắc của Nghĩa được dựng từ những vật liệu mà tự thân nó gần như không mang một lịch sử nào, vay mượn hình dáng của các vật thể mang theo cảm quan nội tại và gần gũi của một căn nhà. Chúng được sắp đặt rải rác trong không gian như những nhân vật trong một câu chuyện. Ở góc phòng, một quyển nhật ký và loạt tranh in đầy chữ viết nguệch ngoạc, cùng rất nhiều phác thảo dường như không hề có một sự liên kết nào với nhau. Ta có thể suy đoán chúng là ‘tốc ký’ từ những giấc mơ thoắt hiện rồi biến mất, hoặc có thể chỉ là một cảnh hư cấu trong trí tưởng tượng của nghệ sĩ.
Đặt cạnh các tác phẩm sắp đặt Hưu và Thạch Lựu, vai trò của cha và mẹ được nhắc đến trong tên gọi của tác phẩm Hứng lấy bằng tay phải và Cầm trong tay trái, khiến ta có cảm giác như đang khám phá một bối cảnh gia đình thiếu vắng sự ấm cúng, gần gũi. Họ hiện diện trong những hình ảnh và chữ viết rời rạc, không hề có một nhân dạng rõ rệt nào. Sự xa lạ này xảy ra khi ba ngôi linh thiêng: cha – mẹ – con bị phá vỡ bởi một ‘bóng âm’ trong tiềm thức.
Toàn bộ ‘sân khấu’ này như một cửa dẫn đến ‘vùng tối’ trong tâm trí của nghệ sĩ. Hầu hết tựa đề các tác phẩm của anh đều bắt đầu bằng một chữ cái, vừa như trò chơi gieo vần làm thơ, vừa như một hành vi gọi tên và ghi nhớ thuần tuý và nguyên thuỷ nhất. Căn phòng của C dành cho bữa ăn Chủ Nhật là sắp đặt những nội thất đứng lặng lẽ, như tàn tích của một nghi lễ. Nằm gọn trong căn phòng ba mặt là tường, mặt còn lại là ban công kính trong suốt, sắt đặt có cảm giác bị đóng kín, nhưng không hề có sự riêng tư. Bối cảnh tưởng như rất bình thường, nhưng khi được quan sát qua góc nhìn hẹp từ lỗ khóa, bỗng trở nên một điều cấm kị. Tuy nhiên, các cánh cửa xuất hiện trong triển lãm không hoàn toàn mang chức năng ngăn cách. Kích cỡ to-nhỏ khác nhau của chúng thực ra là một gợi mở về cảm giác của người xem khi đối diện với một thứ thân quen. Như Alice lạc trong xứ thần tiên, cô tò mò mở một cánh cửa nhỏ như hang thỏ. Có gì ở phía sau?
Sự tò mò khiến người ta chịu khó hơn. Họ sẵn sàng cúi mình, nheo mắt, tìm tòi, quan sát và đánh hơi. Mỗi tác phẩm như một nhân vật đang chơi trò trốn tìm và đánh đố người xem bằng các biểu tượng: một sợi dây thừng bám lấy trụ gỗ, một chiếc kéo nổi lên từ hộp khâu như một vết sẹo lồi, bên cạnh chiếc sừng trơ trọi. Trên những bậc thang, Hộp của Người Bảo Hộ và Hộp của Mảnh Xương, được lót cẩn thận bằng lớp chăn cũ, bên trong lấp ló những vật thể như một phần của tấm xương. Chúng lặng lẽ nhìn ra bên ngoài thế giới qua những vết rách trên vách thùng, còn người xem thì quan sát chúng trong không gian biệt lập như một cái tổ.
Đồ vật trong sắp đặt không còn là những thứ vô tri, mang tính trang trí phục vụ cho nghệ thuật võng mạc⁵ (retinal art) như trong tranh vẽ tĩnh vật. Người xem không còn là kẻ ngoài cuộc mà trở thành một phần không thể thiếu của tác phẩm. Việc được ‘bao gồm’ trong tác phẩm khiến họ khó có thể phớt lờ bối cảnh xung quanh. Sự tương tác, khám phá và diễn giải của họ đem đến sự sống cho tác phẩm, vì cuộc chơi không thể diễn ra khi chỉ có người trốn mà thiếu kẻ tìm.
‘Cảnh tượng của mẫu’ đưa ra một đề xuất tiếp cận ý tưởng về vùng tối, đây đơn thuần chỉ là một đường dẫn vào những sự tiếp nối của giai đoạn gương soi⁶ (mirror stage) trong lịch sử cá nhân của nghệ sĩ, nơi sơ khởi nhất bản ngã. Toàn bộ cảnh quan của trưng bày mang đến bầu không khí uncanny⁷ của ngưỡng giữa bạo tàn và sự chữa lành, giữa thân quen và xa lạ, giữa tiềm thức và ý thức.
Triển lãm này là một phần của chương trình ‘Materialize 2018’, được khởi xướng bởi The Factory và đồng bảo trợ bởi Indochina Arts Partnership. Chương trình mong muốn tạo cơ hội triển lãm cho các nghệ sĩ Việt Nam từ 25 tuổi trở lên, đang sống trên đất nước và chưa có nhiều cơ hội để trưng bày các tác phẩm của mình. Vòng xét tuyển cho năm 2019 đã kết thúc vào ngày 15 tháng 11 năm 2018.
[1] Heidegger, M. The Fundamentals of Metaphysics (1938), chapter III, Indiana University Press (1995), pg.185-213
[2] Thuật ngữ cổ mẫu (archetype) liên quan trực tiếp tới lí thuyết ‘vô thức tập thể’ (collective unconscious) của nhà phân tâm học người Thụy Sĩ Carl Gustav Jung (1875-1961). Jung coi cổ mẫu như những đơn vị vận hành tạo nên vô thức tập thể, là ‘những cấu trúc tinh thần đồng nhất mà tất cả đều có’. Như vậy, Jung không những không phủ nhận vai trò của trải nghiệm cá nhân đối với cấu trúc nhân cách con người mà còn khẳng định vai trò của nó trong quá trình ‘kích hoạt tiềm năng cổ mẫu’ sẵn có trong bản ngã (self). Ông cho rằng, tâm thần con người không đơn thuần chỉ là sản phẩm của trải nghiệm cá nhân, mà nó được ngập chìm trong đại dương vô thức tập thể của nhân loại, kể cả những gì nằm ngoài sự trải nghiệm của cá nhân.
[3] Theo nhà phân tâm học Carl Gustav Jung (1875-1961), trong quá trình trưởng thành, con người buộc phải che dấu một phần nhân cách của mình. Phần nhân cách bị che dấu, nằm ở bên trong, bao gồm cả phần tốt lẫn phần xấu mà cái tôi hoặc là dồn nén hoặc là không bao giờ nhận biết được, có vai trò ngược lại với hình ảnh mà chúng ta thể hiện ra bên ngoài cho người khác thấy (‘persona’). Phần này được ông gọi là ‘bóng âm’ (shadow).
[4] Tạm dịch là ‘nghệ thuật từ những đồ vật làm sẵn’. Thuật ngữ này được Marcel Duchamp (1887-1986) sáng tạo ra vào năm 1915 để diễn tả loại nghệ thuật được tạo nên từ việc sử dụng nguyên bản (hoặc có biến tấu chút ít) những vật bình thường (có chức năng phi-nghệ thuật) để biến chúng thành những tác phẩm nghệ thuật.
[5] Một khái niệm được nghệ sĩ Marcel Duchamp bắt đầu sử dụng vào những năm 1950 để chỉ những tác phẩm nghệ thuật chỉ được xem xét (và đánh giá) qua chính những gì nó thể hiện trên bề mặt – vừa tránh động chạm tới các vấn đề quá “khó khăn”, vừa phải thể hiện cá tính của người nghệ sĩ. Ông cho rằng dạng nghệ thuật này chỉ nhằm kích hoạt quá trình tư duy duy tâm và dựa vào cảm xúc, phải có sức hấp dẫn (về mặt thị giác) và phục vụ cho nhu cầu của đám đông công chúng. Nguồn: http://www.abandon.nl/thinker.htm
[6] Một thuật ngữ trong phân tâm học nhằm chỉ quá trình hình thành bản ngã bằng sự nhận dạng của đứa trẻ thông qua tìm thấy ảo ảnh của chính nó. Tìm đọc thêm về ‘Giai đoạn gương soi’ tại bài thuyết trình của Jacques Lacan (1901-1981), ‘The Mirror-Stage, as Formative of the I, as Revealed in Psychoanalytic Experience’ (1949), IPA congress, Zurich, Swiss.
[7] Đây là một khái niệm phân tâm học của Sigmund Freud (1856 – 1939) nhằm chỉ một độ / trạng thái sợ hãi dẫn ta quay về với những thứ chúng ta đã được biết từ lâu và lúc nào cũng có tính quen thuộc nhưng trong một hoàn cảnh nào đó lại tạo ra một sự bất hòa trong nhận thức, gây nên cảm giác kỳ lạ, sợ hãi.